Theo thông tin từ TTXVN, sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sỹ trong và ngoài nước tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã từ trần hồi 23h12 đêm 1/10/2018, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười tên thật là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2/2/1917, quê ở xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Ông tham gia hoạt động cách mạng và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản từ rất sớm.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười từng được tôi luyện qua các cuộc kháng chiến cứu nước và các giai đoạn xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Năm 1941, khi mới 24 tuổi, ông bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù tại Hoả Lò (Hà Nội). Bốn năm sau, ông vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh uỷ Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở đây. Sau tháng Tám 1945, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông lần lượt đảm nhận các vị trí công tác khác nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Liên khu III: Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam, Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định, Khu uỷ viên Khu III kiêm Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình, Phó Bí thư liên Khu uỷ III kiêm Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III, chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu III, Bí thư Khu uỷ tả ngạn Sông Hồng kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Khu tả ngạn Sông Hồng.
Năm 1955, ông là Bí thư Thành uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban quân chính thành phố Hải Phòng. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 3/1955), ông được bầu bổ sung làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II. Một năm sau, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội thương và đến năm 1958 giữ chức Bộ trưởng Bộ này. Ông cũng là đại biểu Quốc hội khoá II nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Tháng 9/1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông Đỗ Mười được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
8 năm sau đó, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra của Chính phủ. Từ 1969 đến 1971, ông được cử giữ chức Phó thủ tướng, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế Phủ Thủ tướng.Năm 1971, ông được bầu là đại biểu Quốc hội khoá IV, được Quốc hội bầu giữ chức Phó thủ tướng, Chủ nhiệm Uỷ ban kiến thiết cơ bản.
Từ tháng 6/1973 đến tháng 11/1977, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Xây dựng, ĐBQH khoá V, VI.
Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, ông Đỗ Mười được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị, tiếp tục giữ chức Phó thủ tướng nhiệm kỳ 1976-1981.
Tháng 7/1981, ông là ĐBQH khoá VII và được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng lần thứ V diễn ra tháng 3/1982, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị tiếp tục giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 12/1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị và Thường trực Ban bí thư. Lúc này, ông cũng là ĐBQH khoá VIII. Hai năm sau, Quốc hội bầu ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII và VIII, ông Đỗ Mười được bầu vào Ban chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị, giữ chức Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng (6/1991 - 12/1997). Ông cũng là ĐBQH khoá IX.
Tháng 12/1997, ông được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá VIII) cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng và công tác tại đây đến năm 2001.
No comments:
Post a Comment